Featured Posts

«Giáo Hội suy tôn các Thánh giúp chúng ta noi theo gương sáng của các Ngài đã sống đẹp lòng Chúa, hầu giúp chúng ta cũng sống nên thánh »

Ngày 25 tháng 8 Thánh Luy, Hoàng Đế Thánh Giuse Calasanz, Linh Mục

Hôm nay Giáo Hội cho chúng ta mừng kính thánh Luy và Thánh Giuse Calasanz. Thánh Luy là một ông Vua, một hoàng đế – Thánh Giuse Calasanz là một Linh Mục. Cuộc đời của các ngài để lại cho chúng ta những bài học thật quí giá

1. THÁNH LUY (1214 – 1270)

Thánh Luy sinh ngày 25 tháng 4 năm 1214. Cha ngài là vua Luy VIII và mẹ ngài là bà Blanche de Castille. Ngài được rửa tội tại Poissy. Để ghi nhớ ơn phúc rửa tội, ngài thường ký tên là Luy de Poissy.

Ngay từ thơ ấu, Luy đã được hấp thụ từ người mẹ thánh thiện và đầy nghị lực một nền giáo dục hoàn hảo. Chúng ta sẽ còn nhớ mãi lời khuyên mà người mẹ đạo đức đã nói với con mình:

– Con ơi, mẹ yêu con trên hết mọi sự, nhưng mẹ thà thấy con chết ngay bây giờ trước mặt mẹ, còn hơn thấy con phạm một tội trọng mất lòng Chúa.

Năm 12 tuổi, vua cha từ trần sau 3 năm trị vì. Ngài lên nối ngôi cha. Vì nhỏ tuổi, mẹ ngài nắm quyền nhiếp chính. Để bảo đảm, vị thái hậu tinh tế này đã đưa con tới Reims để được phong vương ngày 01 tháng 12 năm 1226.Và điều Thái Hậu tiên đoán đã xảy ra. Nhiều lãnh Chúa đã chống lại quyền cai quản của thái hậu. Họ không tới dự lễ phong vương. Trong hoàn cảnh này, thái hậu Blanche đã tỏ ra thật cương nghị, quyết đương đầu với mọi thử thách. Cũng trong thời gian đầy sóng gió này, ưu tư lớn lao nhất của bà là huấn luyện lòng đạo đức cho người con yêu quý của mình.

Năm lên 20 tuổi, Luy vâng lời mẹ kết hôn với quận công Marguerite miền Provence. Quận công cũng là người nổi tiếng về lòng đạo đức, tinh thần và sắc đẹp. Châm ngôn của nàng là:,”Hoàng hậu của trần gian nhưng là tớ nữ của trời cao.”

Năm sau, khi tới tuổi trưởng thành, Luy lãnh lấy quyền cai quản quốc gia. Những người nặng tinh thần thế tục nghĩ rằng một khi thoát ách của thái hậu, Luy sẽ thông minh theo nếp sống lạc thú xa hoa. Họ lầm. Vua thánh Luy lại càng tỏ ra đạo đức hơn. Hàng ngày, ngài trung thành đọc kinh nhật tụng, tham dự thánh lễ và thăm viếng các bệnh xá. Ngoài những ngày giữ chay theo luật buộc, ngài ăn chay suốt mùa vọng, mọi thứ sáu trong năm và mọi ngày vọng mừng Đức Mẹ. Có người kêu trách nếp sống đạo đức của ngài, lấy lẽ rằng nó làm hại cho việc nước. Thánh nhân trả lời:

– Nhiều người kỳ cục quá, họ cho việc siêng năng cầu nguyện của ta là một trọng tội và rồi họ sẽ chẳng nói năng gì nếu ta để giờ đi săn bắn vui chơi.

Đi đôi với lòng đạo đức, vua thánh Luy còn bày tỏ lòng thương người một cách đặc biệt. Mỗi chiều thứ bảy, ngài có thói quen rửa chân cho một số người nghèo khổ, bệnh tật và mời họ ăn cơm do chính ngài chủ tiếp. Vị đại thần bực bội vì thói quen này. Một lần kia ngài hỏi ông:

– Một là bị phong cùi, hai là phạm một tội trọng ngươi chọn đàng nào?

Viên quan trả lời:

– Hạ thần thích 30 tội trọng hơn là bị cùi.

Và vua trả lời:

– Ngươi dại dột quá, nhà ngươi không biết rằng – còn có một bệnh nào ghê tởm bằng tội trọng, vì phạm tội trọng thì giống hệt như quỷ sứ.

Lòng quảng đại của Vua Luy còn lan rộng ra ngoài biên giới quốc gia. Vua Baudoin II, hoàng đế Constantinople xin vua Luy trợ giúp và để đền ơn, ông đã biếu cho thánh Luy những báu vật liên quan đến Chúa cứu thế như mão gai mà quân lính đã đội đầu Chúa Giêsu.

Thần dân dưới quyền vua thánh thiện được hưởng an bình thịnh vượng. Dầu vậy ngay vào năm 1242, Hugues de Lusingan nổi loạn, chống lại nhà vua với sự trợ giúp của đứa con ghẻ là Henry III, vua nước Anh. Vua Luy tỏ ra là một người có khả năng lãnh đạo, ngài đã dẹp tan cuộc nổi loạn với chiến thắng ở Taillebourg.

Cùng với chí can trường, vua Luy còn triệu tập đoàn binh thánh giá hai năm sau đó. Cuộc xuất chinh mang lại thành quả ban đầu với chiến thắng tại Damietta, miền Châu thổ sông Nile. Nhưng vào tháng 4 năm 1250 ngài bại trận và bị bắt làm tù binh. Sau khi tự do, thánh nhân qua Palestina cho đến khi mẹ ngài qua đời ngày 26 tháng 11 năm 1252, ngài mới trở về tiếp tục công cuộc trị nước.

10 năm sau, vua Luy xuất chinh lần thứ hai. Tháng 7 năm 1270, ngài cùng binh sĩ từ Aigues Mortes tới Châu Phi. Nhưng ít tuần sau đó, ngài mắc bệnh đậu lào và qua đời tại Tunis ngày 15 tháng 08 năm 1270. Một đời sống với Chúa, thánh Luy đã chết trong bình an với lời nguyện dâng mình:

– Con tiến vào nhà Chúa, con sẽ tôn thờ Chúa trong thánh điện ngài và con sẽ tôn vinh danh Chúa.

2. THÁNH GIUSE CALASANZ, LINH MỤC (1557 – 1648)

Thánh Giuse Calasanz sinh năm 1557 tại Peralta de la Sal, miền Aragonia. Cha mẹ ngài là những người giàu có trong miền, nhưng đã dày công dạy cho con biết yêu Chúa thiết tha, ham thích cầu nguyện và tránh xa tội lỗi. Ngay từ niên thiếu Giuse đã tỏ dấu có lòng bác ác đặc biệt với trẻ nhỏ và ưu tư giáo dục chúng. Ngài thường tụ họp các bạn trẻ lại để dạy cho chúng biết các mầu nhiệm đức tin và biết cách cầu nguyện.

Lớn lên, Giuse được gởi học văn phạm và các môn cổ điển tại Estadilla. Mười lăm tuổi ngài đã hoàn tất chương trình trung học. Cha mẹ ngài đặt rất nhiều hy vọng vào tương lai của con nhưng Giuse lại muốn mình phục vụ cho một sứ mệnh cao cả hơn. Ngài xin theo học một chương trình sống rất nghiêm khắc để đề phòng những dục vọng bất chính. Ngài còn nhiệt thành dạy giáo lý cho người thất học, thăm viếng giúp đỡ các bệnh nhân và những người nghèo khổ. Dầu vậy, ngài đã thành công mỹ mãn và được phép ở lại để học dân luật và giáo luật. Ngày 11 tháng 4 năm 1575, ngài chịu phép cắt tóc gia nhập hàng giáo sĩ.

Sau khi đậu tiến sĩ giáo luật và dân luật, Giuse tiếp tục học thần học tại Valence. Nơi hoa lệ này, quỷ đã ra sức tấn công đức trinh khiết của ngài. Nhưng quyết hiến thân cho Chúa, Giuse đã chiến thắng vẻ vang. Từ đó ngài bỏ Valence để tiếp tục theo học tại Alcada.

Tuy nhiên một hung tin làm xáo trộn cuộc đời ngài. Người anh của ngài, một sĩ quan quân đội từ trần mà chưa có con nối dõi tông đường. Giuse trở về quê nhà vâng lời cha mẹ nhưng vẫn nuôi ước vọng làm linh mục. Ngài ra sức cầu nguyện và được nhậm lời. Ngài lâm trọng bệnh và các y sĩ đều bó tay. Người cha của Giuse hứa sẽ cho ngài làm linh mục nếu được chữa lành. Và rồi Giuse đã lành bệnh.

Ngày 17 tháng 12 năm 1583, Giuse được thụ phong linh mục. Từ đó cha Giuse lao mình vào công việc chấn hưng đạo đức. Ngài đã thành công đến nỗi 35 tuổi đã được đặt làm bề trên địa phận Urgel. Dầu vậy, ngài cảm thấy có sức thúc đẩy đến Roma. Ngài lên đường và suốt năm năm, ngài đã sống tại giáo đô như là một khách hành hương khiêm tốn. Trong thời gian này, thánh nhân đã thấy tận mắt sự khốn cùng và những tật xấu của đám dân nghèo. Ngài xác tín rằng tình trạng này gây nên bởi sự thiếu hiểu biết về đạo. Hiện đang sở hữu tài sản lớn lao do người cha từ trần để lại, ngài liền thiết lập những trường miễn phí cho dân nghèo. Nhiều người đến cộng tác với ngài, phần lớn là các giáo sĩ. Dần dần, họ họp thành một dòng giáo sĩ triều được đặt dưới sự bảo trợ của Mẹ Thiên Chúa. Năm 1622, cha Giuse được đặt làm bề trên tiên khởi. Các trường dưới sự hướng dẫn của ngài ngày càng thêm nhiều, công cuộc của ngài lan rộng sang Đức, Bohemia và Balan.

Về già, cha Giuse trở thành nạn nhân của một âm mưu nhằm truất phế ngài. Mầm mống chia rẽ vì ghen tỵ mọc lên trong dòng, khiến Đức Innocente X hạ dòng xuống thành hội đạo đức mà thôi. Cha Giuse vẫn vui vẻ chấp nhận. Tuy nhiên, Chúa lại thưởng công cho ngài qua nhiều phép lạ, nhất là được thấy Đức Mẹ ẵm Chúa Giêsu đến xem các học trò của ngài lần hạt và ban phép lành cho họ; ngài còn được ơn nói tiên tri, cho biết 10 năm sau dòng sẽ phục hồi và phát triển mạnh mẽ.

Ngày 25 tháng 8 năm 1648, thánh Giuse từ trần vì một cơn sốt, thọ 92 tuổi. Năm 1767, ngài được phong thánh. Năm 1948, ngài được đặt làm vị tông đồ giáo dục và làm đấng bảo trợ các trường Công giáo. (Tổng hợp)

Nguồn: tgpsaigon.net